Lấy lại mật khẩu
x

Đại dịch đã ảnh hưởng đến não bộ của trẻ như thế nào?

16/02/2022 | Blacasa Education

Các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm lời giải đáp cho câu hỏi: Liệu đại dịch có đang định hình sự phát triển não bộ và hành vi ở trẻ em hay không?

Dani Dumitriu là một trong số các bác sĩ nhi khoa đã sớm chuẩn bị tinh thần cho sự tác động của virus SARS-CoV-2 khi nó bắt đầu bùng phát. Thật may mắn là hầu hết trẻ sơ sinh mắc Covid-19 tại bệnh viện nơi bà làm việc đều có vẻ vẫn khỏe mạnh. Việc Zika và các loại virus khác có thể gây dị tật bẩm sinh ở trẻ khiến các bác sĩ cũng có những nghiên cứu tương tự khi xảy ra đại dịch Covid-19.

Bác sĩ Dumitriu và nhóm nghiên cứu của bà tại Bệnh viện Nhi Presbyterian Morgan Stanley-NewYork ở thành phố New York vẫn đang thu thập dữ liệu về sự phát triển của trẻ sơ sinh trong hơn hai năm qua. Kể từ cuối năm 2017, họ đã bắt đầu phân tích khả năng vận động và giao tiếp của trẻ từ 6 tháng tuổi trở xuống. Bác sĩ Dumitriu cho rằng cần so sánh kết quả của trẻ được sinh ra trước và trong mùa dịch, nên đã nhờ đồng nghiệp Morgan Firestein, một nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ của Đại học Columbia, đánh giá sự khác biệt trong quá trình phát triển thần kinh của hai nhóm trẻ.

Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy trẻ sinh ra trong mùa dịch có điểm kiểm tra trung bình về vận động và giao tiếp thấp hơn trẻ được sinh ra trước đó (cả hai nhóm đều được đánh giá bởi chính phụ huynh dựa bảng câu hỏi có sẵn). Vấn đề không phải là việc cha mẹ có bị mắc Covid-19 hay không, mà có vẻ như là chính môi trường dịch bệnh.

Mặc dù nhìn chung trẻ bị mắc Covid-19 vẫn khỏe mạnh, nhưng các nghiên cứu sơ bộ cho thấy sự căng thẳng của người mẹ khi mang thai trong mùa dịch có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển não bộ ở một số trẻ. Ngoài ra, các bậc cha mẹ và người chăm sóc trẻ bị tác động bởi dịch bệnh có thể sẽ có sự tương tác khác hoặc ít tương tác với trẻ hơn, từ đó làm ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ.

Giãn cách xã hội vốn là việc quan trọng nhằm kiểm soát sự lây lan của virus, nhưng cũng đồng thời cô lập nhiều gia đình có con nhỏ, đánh cắp thời gian vui chơi và tương tác xã hội của họ. Nhiều người chăm trẻ cũng không thể dành nhiều thời gian để ở bên cạnh chăm sóc những bé mới sinh hay chập chững biết đi do phải chịu áp lực và làm việc quá sức.

Ông James Griffin, giám đốc Chi nhánh Hành vi và Phát triển ở Trẻ em tại Tổ chức Quốc gia Eunice Kennedy Shriver về Phát triển con người và sức khỏe của trẻ em tại Bethesda, Maryland (Mỹ) cho hay: "Mọi người đều muốn tìm hiểu sự ảnh hưởng của đại dịch đến mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa những đứa trẻ với nhau". 

Một số nhóm nghiên cứu trên khắp thế giới đã tìm hiểu về vấn đề này và bắt đầu công bố những phát hiện của họ. Các cuộc nghiên cứu mới cũng được tiến hành. Tuy nhiên, để đưa ra một câu trả lời chắc chắn là một việc hết sức khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch - nhiều phòng nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em đã phải đóng cửa.

Trong hai năm vừa qua, một số trẻ sơ sinh có thể bị chậm phát triển, nhưng số còn lại vẫn khỏe mạnh lớn lên khi có người ở nhà chăm sóc và tương tác với chúng. Cũng như các vấn đề về sức khỏe, sự chênh lệch về kinh tế xã hội cũng góp phần chỉ ra những người bị ảnh hưởng nhiều nhất trong đại dịch này.

Theo các dữ liệu trước đây, việc sử dụng khẩu trang không hề ảnh hưởng tiêu cực đến việc nhận thức cảm xúc của trẻ. Mặc dù vậy, sự căng thẳng tiền sinh sản có thể là một trong những yếu tố gây ra một số thay đổi trong sự liên kết nối của não bộ. Bức tranh đang dần hiện ra rõ ràng hơn, nhưng nhiều nghiên cứu vẫn chưa được xem xét.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng nhiều trẻ có biểu hiện chậm phát triển vẫn có thể bắt kịp bạn bè đồng trang lứa mà không có hậu quả về lâu dài. Moriah Thomason, nhà tâm lý học cho trẻ và vị thành niên của trường Đại học Y Grossman, New York, cho biết: "Tôi không cho rằng chúng ta sẽ có một thế hệ bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch này".

Dấu hiệu đáng lo ngại

Phòng nghiên cứu Hình ảnh Trẻ em Chất lượng cao của Đại học Brown tại Providence, Rhode Island là nơi vẫn duy trì hoạt động trong thời gian đại dịch bùng phát. Tại đây, nhà sinh lý học Sean Deoni và đồng nghiệp của ông đã sử dụng phương pháp chụp cộng hưởng từ (MRI) và các kỹ thuật khác để phân tích các yếu tố từ môi trường định hình sự phát triển não bộ ở trẻ sơ sinh.

Mặc dù đại dịch đã thay đổi cách thực hiện nghiên cứu - ít khách tham quan và vệ sinh nhiều hơn, họ vẫn tiếp tục mời trẻ sơ sinh đến phòng nghiên cứu để theo dõi khả năng vận động, nhận thức và ngôn ngữ như một phần nghiên cứu 7 năm của Viện Y tế Quốc gia về sự phát triển từ sớm của trẻ và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe sau này.

Tuy nhiên, khi đại dịch hoành hành, Deoni bắt đầu thấy các đồng nghiệp phản ánh rằng trẻ đến nghiên cứu vào thời điểm này mất nhiều thời gian hơn để thực hiện các bài khảo sát. Do cảm thấy khó hiểu, ông đã yêu cầu các nhà nghiên cứu chỉ ra và so sánh mức trung bình hàng năm và sự khác biệt trong điểm số phát triển thần kinh đã thu thập được.

Lúc này, họ phát hiện ra rằng điểm số trong thời kỳ đại dịch tồi tệ hơn rất nhiều so với những năm trước đây. Ông cho biết điểm số chỉ bắt đầu đi xuống từ cuối năm 2020 và đầu năm 2021. Trong một bộ các bài kiểm tra đo lường sự phát triển tương tự như kiểm tra IQ, trẻ được sinh ra trong mùa dịch có điểm số thấp hơn tận hai bậc đánh giá so với trẻ sinh ra trước đó. Trẻ sinh ra từ các gia đình có thu nhập thấp có điểm số giảm mạnh nhất, bé trai bị ảnh hưởng nhiều hơn bé gái và khả năng vận động thô là kỹ năng bị ảnh hưởng nhiều nhất.

 

Bảng điểm đánh giá khả năng nhận thức của hơn 600 trẻ từ 3 tháng đến 3 tuổi; trong đó có 39 trẻ được sinh ra trong đại dịch Covid-19. Nhìn chung, những trẻ được đánh giá vào năm 2020 và 2021 có điểm số thấp hơn trong khả năng ngôn ngữ, xếp hình, vận động như đứng, ngồi (Nguồn: Nature).

Ban đầu, ông Deoni cho rằng có sự thiên vị trong mẫu chọn nghiên cứu: những gia đình đến trong mùa đại dịch có thể đều đã phát hiện con của họ có nguy cơ mắc các vấn đề về phát triển hoặc đã có biểu hiện của chúng. Nhưng theo thời gian, ông đã bị thuyết phục rằng sự thiên vị không thể lý giải được kết quả nghiên cứu, bởi vì những đứa trẻ đến không hề có xuất thân, kết quả sinh ra hoặc tình trạng kinh tế xã hội quá khác biệt so với những đợt trước.

Những tác động này có vẻ như khá lớn, nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng đó có thể không phải là những vấn đề lâu dài. Nhà tâm lý học thần kinh phát triển Marion van den Heuvel ại Đại học Tilburg (Hà Lan) cho hay: "Chỉ số IQ của em bé không nói lên được gì nhiều, và rất khó nói nó có ý nghĩa như thế nào trong tương lai".

Bà cũng đề cập đến một nghiên cứu về các bé gái người Rumani ban đầu được nuôi dưỡng trong trại trẻ mồ côi và được nhận nuôi sau đó. Kết quả cho thấy các bé được nhận nuôi trước 2 tuổi rưỡi biểu hiện ít nguy cơ mắc các vấn đề tâm lý hơn so với những bé vẫn được chăm sóc tại cơ sở 2 năm sau đó. Dù khác với đại dịch, nhưng tình huống này cũng thể hiện rằng trẻ sơ sinh có khả năng phục hồi khi được loại bỏ các hạn chế.

Dù vậy, Deoni vẫn lo lắng rằng nếu đại dịch kéo dài càng lâu, trẻ em sẽ càng bị nhiều dị tật bẩm sinh hơn. Khi đăng nghiên cứu của mình lên máy in trước, Deoni đã phải hứng chịu làn sóng chỉ trích mạnh mẽ từ cộng đồng các nhà nghiên cứu. Griffin cho rằng "in ấn những kết quả chưa được bình duyệt là một vấn đề rất đáng lo ngại".

Nhưng giả sử những phát hiện đó là có giá trị, câu hỏi được đặt ra là: Tại sao những đứa trẻ sinh ra trong đại dịch Covid-19 lại bị thiếu hụt trầm trọng về khả năng nhận thức, và đặc biệt là vận động như thế? Deoni nghi ngờ vấn đề bắt nguồn từ sự thiếu tương tác giữa người với người. Trong nghiên cứu tiếp theo chưa được công bố, ông và nhóm của mình đã ghi hình lại cách cha mẹ tương tác với con cái họ ở nhà, và nhận thấy trong hai năm qua, số lượng từ mà cha mẹ nói với các bé và ngược lại thấp hơn hẳn so với những năm trước.

Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng không được vận động nhiều như trước vì chúng không được thường xuyên ra sân chơi với những đứa trẻ khác. "Thật không may, những kỹ năng này lại là nền tảng cho tất cả các kỹ năng khác", ông chia sẻ.

Các nghiên cứu khác gần đây cũng ủng hộ ý kiến cho rằng việc thiếu tương tác với các bạn đồng trang lứa có thể kìm hãm sự phát triển ở một số trẻ. Trong một nghiên cứu được công bố vào đầu năm nay, các nhà nghiên cứu tại Anh đã khảo sát 189 phụ huynh có con trong độ tuổi từ 8 tháng đến 3 tuổi. Họ được hỏi có cho con đi nhà trẻ hay mẫu giáo trong thời kỳ đại dịch hay không, và đồng thời yêu cầu đánh giá các kỹ năng ngôn ngữ và vận động của con. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng trẻ sẽ phát triển kỹ năng tốt hơn nếu chúng được chăm sóc theo nhóm và những lợi ích này được thể hiện rõ nhất ở những trẻ có hoàn cảnh khó khăn.

Trẻ da màu hay đến từ các gia đình có thu nhập thấp thường là những người có nguy cơ chịu ảnh hưởng nhiều từ đại dịch thường. Ngày càng có nhiều các bài nghiên cứu cho rằng đối với trẻ em trong độ tuổi đi học, học tập từ xa sẽ chỉ làm tăng thêm sự chênh lệch trong học tập và phát triển giữa trẻ đến từ gia đình khá giả với trẻ có hoàn cảnh khó khăn, giữa trẻ da trắng và trẻ da màu. Tại Hà Lan, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trẻ em đạt điểm số kém hơn trong các kỳ đánh giá quốc gia vào năm 2020 so với ba năm trước. Đồng thời, thiệt hại trong học tập cũng lớn hơn tới 60% đối với những trẻ từ các gia đình ít học.

Một số trẻ tại các khu vực thuộc châu Phi cận Sahara - bao gồm Ethiopia, Kenya, Liberia, Tanzania và Uganda còn mất hẳn đến một năm học. Ở Mỹ, một báo cáo của công ty tư vấn McKinsey cho hay, sau đợt giãn cách đầu tiên, học sinh da màu bắt đầu đi học vào mùa thu đã bị chậm 3-5 tháng so với thông thường, trong khi học sinh da trắng chỉ chậm hơn 1-3 tháng.

Ảnh hưởng của khẩu trang

Trẻ em được đi học trong đại dịch thường xuyên phải tương tác với những người đeo khẩu trang. Một câu hỏi quan trọng được đặt ra là liệu khẩu trang, thứ che khuất phần lớn những yếu tố quan trọng trên khuôn mặt để thể hiện cảm xúc và lời nói, có ảnh hưởng đến sự phát triển cảm xúc và khả năng ngôn ngữ của trẻ em hay không.

 

Một người mẹ đeo khẩu trang đang tương tác với con gái trong lúc chờ đợi kết quả PCR tại Houston, Texas (Ảnh: Brandon Bell/Getty).

Nhà tâm lý học Edward Tronick tại Đại học Massachusetts Boston, nổi tiếng với thí nghiệm 'Still Face' vào năm 1975, chỉ ra rằng khi cha mẹ đột nhiên trở nên "vô cảm", con của họ ban đầu sẽ cố gắng thu hút sự chú ý của cha mẹ, sau đó từ từ rút lui, rồi dần trở nên khó chịu và đề phòng. Trong mùa dịch này, ông đã nhận được vô số email từ các bậc cha mẹ và bác sĩ nhi khoa lo ngại về các tác động tiềm tàng của việc đeo khẩu trang.

Cùng với nhà tâm lý học Nancy Snidman, Tronick đã tiến hành một thử, trong đó cha mẹ sẽ sử dụng điện thoại để ghi lại các tương tác với con họ trước, trong và sau khi họ đeo khẩu trang. Khi trẻ nhận thấy sự xuất hiện của khẩu trang, chúng sẽ nhanh chóng thay đổi nét mặt, nhìn sang chỗ khác hoặc chỉ vào khẩu trang. Tuy nhiên, sau đó chúng vẫn tiếp tục tương tác với bố mẹ như trước. Tronick giải thích kết quả này là do khẩu trang chỉ ngăn cản một kênh giao tiếp duy nhất, và "Cha mẹ đeo khẩu trang vẫn ra hiệu cho bé rằng họ vẫn ở đó, tương tác, và muốn nói chuyện cùng".

Khẩu trang cũng không ảnh hưởng nhiều đến khả năng nhận thức cảm xúc hoặc ngôn ngữ của trẻ. Một nghiên cứu được công bố vào tháng 5 đã báo cáo rằng trẻ hai tuổi vẫn có thể hiểu lời người lớn nói khi đeo khẩu trang không trong suốt. Nhà tâm lý học Leher Singh tại Đại học Quốc gia Singapore cho biết trẻ em "bù đắp sự thiếu hụt thông tin dễ dàng hơn ta nghĩ". Các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ cũng phát hiện ra mặc dù khẩu trang khiến trẻ em ở tuổi đi học khó nhìn ra cảm xúc của người lớn hơn - như khi người lớn đeo kính râm, nhưng phần lớn vẫn có thể đưa ra những suy luận chính xác.

Người đứng đầu nghiên cứu Ashley Ruba, nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ tại Đại học Wisconsin - Madison, cho rằng: "Trẻ có thể sử dụng nhiều dấu hiệu khác nhau như ngữ điệu, biểu cảm cơ thể, ngữ cảnh để phân tích tâm trạng của người khác".

Mang thai và căng thẳng

Nhiều nhà nghiên cứu rất muốn biết liệu đại dịch này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em từ trước khi chúng được sinh ra hay không. Catherine Lebel, nhà tâm lý học điều hành Phòng thí nghiệm Hình ảnh Thần kinh phát triển tại Đại học Calgary (Canada), và đồng nghiệp đã khảo sát hơn 8.000 sản phụ trong thời kỳ đại dịch. Gần một nửa trong số đó nói rằng họ đã trải nghiệm những dấu hiệu của căng thẳng, và một phần ba số sản phụ có biểu hiện của triệu chứng trầm cảm. Tỷ lệ này cao hơn hẳn so với những năm trước khi dịch bùng phát. Vậy sự căng thẳng này sẽ ảnh hưởng đến em bé trong bụng mẹ như thế nào?

Để tìm ra nguyên nhân, các nhà nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật MRI để quét não của 75 trẻ sơ sinh 3 tháng tuổi. Trong một bản in sớm được đăng vào tháng 10/2021, họ viết rằng trẻ được sinh ra từ sản phụ có nhiều triệu chứng lo lắng hoặc trầm cảm khi mang thai có các cấu trúc ghép nối khác nhau giữa hạch hạnh nhân, vùng não xử lý cảm xúc, với vỏ não trước trán, khu vực điều hành mọi hoạt động của cơ thể.

Đại dịch đã ảnh hưởng đến não bộ của trẻ như thế nào? - 4

Scan quét não cho thấy các kiểu kết nối thông thường giữa hạch hạnh nhân và các vùng khác ở trẻ sơ sinh. Căng thẳng do đại dịch khi mang thai đã làm suy yếu các kết nối này ở một số trẻ (Ảnh: Kathryn Manning).

Ở những nghiên cứu nhỏ lẻ trước đây, Lebel và tổ nghiên cứu của bà đã tìm ra được sự liên kết giữa trầm cảm tiền sinh đẻ với sự khác biệt trong liên kết não bộ tại cùng một khu vực. Kết quả cho thấy những thay đổi trong não bộ là nguyên nhân dẫn đến thái độ hung hăng và tình trạng tăng động ở các bé trai trong độ tuổi mẫu giáo. Các nhóm nghiên cứu khác cũng đã phát hiện ra rằng sự thay đổi trong kết nối giữa các khu vực này ở người lớn là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra trầm cảm và căng thẳng. Lebel cho hay: "Đây là những vùng tham gia vào quá trình xử lý cảm xúc và rất nhiều hành vi khác".

Nhiều nghiên cứu mới đây cũng tìm ra mối liên hệ tương tự giữa căng thẳng tiền sinh nở do đại dịch và sự phát triển của trẻ. Livio Provenzi, nhà tâm lý học tại IRCCS Mondino Foundation ở Pavia, Italy, cùng các đồng nghiệp quan sát thấy những đứa trẻ 3 tháng tuổi có mẹ phải trải qua nhiều căng thẳng và lo lắng trong thời kỳ mang thai sẽ gặp nhiều vấn đề trong việc điều chỉnh cảm xúc và sự tập trung hơn. Chúng có ít khả năng duy trì sự chú ý vào các kích thích xã hội và khá khó để dỗ dành so với trẻ có mẹ ít căng thẳng và lo lắng hơn khi mang thai.

Thomason đang tự mình tiến hành một cuộc nghiên cứu để đánh giá tác động của những tác nhân gây căng thẳng cho người mẹ đối với não bộ và hành vi của trẻ. Bà nhấn mạnh, mặc dù có rất nhiều lo ngại về việc căng thẳng trước khi sinh có thể ảnh hưởng đến trẻ mắc đại dịch như thế nào, nhưng những phát hiện sớm này không có nghĩa là trẻ sẽ phải vật lộn với chúng trong suốt phần đời còn lại. "Trẻ em rất dễ thích nghi và uốn nắn. Chúng tôi hy vọng rằng mọi chuyện sẽ tiến triển tốt lên và chúng sẽ có thể kiên cường bất chấp những gì đã xảy ra", bà cho hay.

Thật vậy, một cuộc nghiên cứu về các thảm họa thiên tai cũng cho rằng, sự căng thẳng có thể gây hại cho trẻ đang trong bụng mẹ, nhưng nó sẽ không ảnh hưởng về lâu dài. Những đứa trẻ được sinh ra từ những người bị ám ảnh do hệ quả của trận lũ lụt năm 2011 ở Queensland, Australia, có biểu hiện của sự thiếu hụt trong các kỹ năng xã hội và giải quyết vấn đề so với những đứa trẻ khác khi mới 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, đến tháng thứ 30, những kết quả đã không còn liên quan đến sự căng thẳng nữa. Cha mẹ càng dành nhiều thời gian trò chuyện và chơi đùa cùng con, trẻ càng phát triển ngày một tốt hơn.

Sự thận trọng và hành động

Các nhà khoa học cho rằng còn quá sớm để đưa ra kết luận chính xác. Catherine Monk, nhà tâm lý học làm việc với Dumitriu tại NewYork - Presbyterian, cho biết, một số phát hiện ban đầu và thường chưa được công bố này có thể không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra.

Theo lời của Monk, những bậc phụ huynh tham gia một số nghiên cứu ban đầu có thể không phải là những đại diện tiêu biểu. Có thể vào lúc đó, họ đã sớm lo lắng về con cái của mình qua những biểu hiện thường ngày của chúng. Không chỉ vậy, bà còn nói, kết quả của các cuộc nghiên cứu trực tiếp như của Deoni có thể bị ảnh hưởng bởi việc đeo khẩu trang, dù không quá nhiều, nhưng vẫn đủ để làm sai lệch kết quả.

Như Thomason đã viết trong một bài bình luận trong tạp chí JAMA Pediatrics vào năm ngoái, động cơ để xuất bản những phát hiện thú vị cũng có thể định hình những nghiên cứu trước đây. "Các nhà khoa học tìm ra những sự khác biệt có hại rất nhanh. Đó chính là thứ sẽ thu hút sự chú ý của giới truyền thông và được in trên những tạp chí có sức ảnh hưởng lớn", bà nói.

Các nhà nghiên cứu và nhà tài trợ đang tiến hành các nghiên cứu và hợp tác lớn có thể giúp góp phần xây dựng một bức tranh tổng quan hơn về vấn đề này. Tổ chức Quốc gia Hoa Kỳ về Lạm dụng Ma túy đang tài trợ cho rất nhiều các nghiên cứu thông qua chương trình Nghiên cứu Phát triển Trẻ em và Trí não Khỏe mạnh. Những nghiên cứu này sẽ đào sâu tìm hiểu về tác động của sự căng thẳng từ người mẹ và việc sử dụng chất kích thích trong đại dịch đến sự phát triển của trẻ.

Ngoài ra, các liên minh và hội nghị cũng được thành lập để kết nối các nhà nghiên cứu lại với nhau và chia sẻ dữ liệu. Vào tháng 3/2020, Thomason đã thành lập Liên minh Nghiên cứu Thế hệ Covid quốc tế, tập hợp các nhà nghiên cứu gia đình có trẻ nhỏ trong thời kỳ đại dịch từ 14 quốc gia trên thế giới. Liên minh đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh vào tháng 11/2021, bao gồm các nhà nghiên cứu đến từ Bắc và Nam Mỹ, Châu Âu, Australia, Châu Á, Trung Đông và Châu Phi.

Dumitriu nhấn mạnh, ngay cả khi não bộ của trẻ em thực sự bị ảnh hưởng bởi đại dịch, chúng ta vẫn còn thời gian để hướng chúng về sự phát triển ban đầu. Bà cho rằng: "Chúng ta hoàn toàn có thể ngăn chặn sự phát triển sai lệch này bằng cách biến nó thành tình trạng báo động về sức khỏe cộng đồng. Bộ não của trẻ 6 tháng tuổi rất mong manh, chúng ta hoàn toàn có thể xâm nhập và thay đổi quỹ đạo của nó".

Cha mẹ có thể giúp con nhỏ phát triển bằng cách chơi và trò chuyện với chúng thường xuyên, và tạo môi trường an toàn cho chúng nô đùa cùng với những đứa trẻ khác. Bên cạnh đó, những thay đổi trong chính sách hỗ trợ gia đình và trẻ em cũng có thể tạo ra sự khác biệt. Nghiên cứu của Lebel cho thấy sự giúp đỡ đến từ những người thân, chẳng hạn như từ bạn đời hoặc bạn thân, trong thời kỳ mang thai có thể giúp giảm thiểu tình trạng lo lắng tiền sinh sản.

Monk nói: "Chúng ta có thể làm được nhiều hơn thế trong hệ sinh thái chăm sóc các sản phụ trước khi sinh." Các nhà nghiên cứu cũng đang tranh luận về những biện pháp can thiệp hỗ trợ các gia đình ngay sau khi có con. Nghiên cứu của Provenzi đã phát hiện ra rằng những người vừa sinh con và được các y tá và bác sĩ sơ sinh đến thăm khám tại nhà đã ít gặp tình trạng căng thẳng và lo lắng hơn những người không được thăm khám.

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu vẫn giữ vững quan điểm cho rằng hầu hết trẻ em đều sẽ phát triển được bình thường tuy còn nhiều khó khăn. Nếu cha mẹ muốn hỗ trợ những bé đang bị chậm lại phía sau thì nên can thiệp ngay từ sớm. Deoni cho rằng, "Trẻ con chắc chắn rất kiên cường, nhưng chúng tôi cũng nhận thấy 1000 ngày đầu tiên trong cuộc đời là nền tảng quan trọng cho một đứa trẻ." Những đứa trẻ được sinh ra trong đợt bùng dịch đầu tiên, tháng 3 năm 2020, tới thời điểm này đã hơn 650 ngày tuổi.

Trẻ em "là sản phẩm từ môi trường mà chúng sống", Deoni nói. "Điều chúng ta cần làm với trẻ là ngày càng khuyến khích, vui đùa, đọc cho chúng nghe và hết mực yêu thương chúng."

Theo yahoo.com, dịch bài báo điện tử Dân trí